Lịch sử Quân_hiệu_Quân_đội_Nhân_dân_Việt_Nam

Quân hiệu Quân đội nhân dân Việt Nam gắn trên mũ cứng ,mũ mềm dã chiến và mũ lông biên phòng; đôi khi quân hiệu còn được gắn trên mũ kê-pi kiểu cũ của sĩ quan nam - nữ và mũ có dải của hạ sĩ quan - chiến sĩ Hải quân với cành tùng kép tháo rời.

Năm 1954

Quân hiệu hình tròn, đường kính 3 cm, nền đỏ, ở giữa là ngôi sao vàng nổi, không có hình bánh răng và hai bông lúa. Vành ngoài quân hiệu màu vàng

Năm 1958

Bắt đầu có quân hiệu, phù hiệu của Lục quân, Không quân, Hải quân.

  • Lục quân: Quân hiệu hình tròn, nền màu đỏ, ở giữa là ngôi sao vàng nổi. Phía dưới có hình nửa bánh răng, và hai bông lúa vươn lên bao quanh ngôi sao. Vành ngoài quân hiệu màu vàng.
  • Không quân: Quân hiệu hình tròn, nền màu xanh da trời, ở giữa là ngôi sao vàng nổi đè lên hình đôi cánh chim màu bạc. Phía dưới có hình nửa bánh răng, và hai bông lúa vươn lên bao quanh ngôi sao. Vành ngoài quân hiệu màu vàng.
  • Hải quân: Quân hiệu hình tròn, nền màu tím than, ở giữa là ngôi sao vàng nổi đè lên hình mỏ neo màu đỏ. Phía dưới có hình nửa bánh răng, và hai bông lúa vươn lên bao quanh ngôi sao. Vành ngoài quân hiệu màu vàng.
  • Giải phóng quân: Quân hiệu hình tròn, nền nửa trên màu đỏ nửa dưới màu xanh da trời, ở giữa là ngôi sao vàng nổi. Phía dưới có hình nửa bánh xe, và hai bông lúa vươn lên bao quanh ngôi sao. Vành ngoài quân hiệu màu vàng.

Năm 1982

Năm 1982, cùng với trang phục K82, đã quy định về quân hiệu, phù hiệu, cấp hiệu thống nhất như sau:

Quân hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam hình tròn, nền đỏ ở giữa là ngôi sao vàng tượng trưng cho cờ Tổ quốc. Phía dưới có hình nửa bánh răng và hai bông lúa vươn lên bao quanh ngôi sao, tượng trưng cho công nông. Vành ngoài màu vàng. Quân hiệu nhỏ gắn trên mũ cứng, mũ mềm và mũ lông biên phòng. Quân hiệu lớn gắn trên mũ kê-pi của sĩ quan cả nam và nữ, mũ có dải của hạ sĩ quan - chiến sĩ Hải quân với cành tùng kép tháo rời.